jeudi 30 septembre 2021

NHÁNH LAN RỪNG

Nhánh lan rừng_anh nhặt lúc hành quân

khi đạn pháo đốn cây vừa ngả xuống

hoa tím rưng rưng tiếc cho cổ thụ

bấy nhiêu năm che cho nhánh lan rừng

*

Cầm nhánh lan rừng anh lại nhớ đến em

người con gái rất yêu thương màu tím

giữa chiến tranh nhành lan như ngọt lịm

nhớ môi em chúm chím nụ hôn đầu

*

Nụ lan rừng_ôi nhớ cách gì đâu

thoảng hương đưa thơm mùi con gái

nhớ một vòng tay còn run lẩy bẩy

choàng qua vai_âu yếm _một vòng tay

*

Cuộc chiến tàn trong hố gió chiều nay

anh đã có trong tay màu tím nhớ

nụ lan rừng_lòng anh đang trăn trở

nhớ một người nói:_ em nhớ người ta

*

Anh giờ đây là người lính xa nhà

làm sao gửi cho em nhành lan tím...

 

Lan Phi

vendredi 22 février 2019

NƯỚC MẮT ĐỖ QUYÊN



Ngày xưa anh vẫn hay đưa em về Pleiku thăm gia đình anh, anh cho em trọn những tháng ngày thật quá đẹp, đẹp chi lạ, như tình anh đã cho em . 
 Mỗi khi về đây, mỗi ngày anh vẫn đưa em vào rừng, đi trên những đường mòn anh quen thuộc, hái cho em những bông hoa rừng  viết tên nhau trên thân cây thông  tặng em những đoá lan rừng và nhiều khi mình đi dọc theo quốc lộ, anh hái đoá Dã Quì gài lên tóc em và nói, uổng quá, anh quên đem bàn bóng để chụp em làm kỷ niệm, sau ni lỡ mình có xa nhau, anh vẫn còn hình em trong túi . Có một lần anh đem theo máy, nhờ một người Thượng chụp cho mình hai tấm, một anh giữ và một em giữ . Có hôm anh đưa em vào thăm một buôn người Thượng, họ mời mình ăn khô nai và uống rượu cần, anh không muốn cho em thử vì em còn trẻ quá, sợ em không quen rồi say, nhưng sau đó khi mình từ giã ra về, trên đường, anh ôm em  và hôn em trên môi, lần đầu tiên anh hôn em, mà lúc khác anh không muốn hôn em như vậy, nói là anh muốn giữ đôi môi trinh nguyên cho đến ngày em 18 tuổi lúc đó anh sẽ hôn em vì ngày đó  anh sẽ xin ba mạ cho anh được đính hôn với em ...
Thời gian trôi đi  em vừa mới 16 tuổi, anh có giấy nhập ngũ, anh đưa em về thăm lại phố núi, thăm ba anh và các chị, em còn nhớ r, đêm đó trăng rất sáng  trăng mười sáu như tuổi em.
 Sau cơm chiều, ở trên này đèn đuốc lờ mờ, chỉ trăng sáng thay đèn  anh rủ em đi một vòng trong vườn nhà, đêm trăng, những bông hoa Đỗ Quyên bên ven rừng rực thắm đủ màu hồng có, đỏ có trắng có ...  các chị anh có tay trồng cây và hoa, và vườn thật rộng, mình đi thẳng xuống cuối vườn  có một giòng suối nhỏ chảy qua, nước rất ấm và lạ một điều là khi xuống tắm xong, lên da dẻ trắng cho nên mấy cô gái ưa tắm trong những suối như vậy để cho da trắng, nhất là những đêm dạ hội  .
Cạnh suối, chị anh có để một chiếc ghế dài bằng gỗ để ai muốn ra đây ngồi mơ mộng hay làm thơ . Em nghĩ vì vậy mà anh đã trở thành thi sĩ .
Đêm đó dưới trăng, em ngồi cạnh suối trên bãi cỏ xanh um, anh nằm dài trên chân em, anh kể chuyện huyên thuyên, hình như anh hiểu mình sắp xa nhau nên anh muốn em uống hết những lời anh nói, chung quanh mình thật yên lặng, chỉ nghe tiếng róc rách của suối và những con dế làm thơ tình tặng người yêu . Bỗng anh cũng nín lặng  anh cầm chặt tay em   vít đầu em xuống cạnh mặt anh, hôn em tới tấp , hình như có một luồng điện cao tầng giựt cả hai đứa, anh đặt em nằm dài lên cỏ, anh nằm dài trên em, em chợt cảm thấy một điều gì thật lạ em chưa hề biết  hình như rạo rực thì phải, em run lẩy bẩy dưới những chiếc hôn nồng của anh, anh thì thầm trong tai em :
- Đỗ Quyên, anh muốn ... ( anh ít khi gọi em bằng tên thiệt vì anh nói tên em rất đẹp, chỉ dành riêng cho anh thôi . Anh gọi em là Đỗ Quyên vì nhà anh trên núi trong vườn chị anh trồng đầy và anh cũng thấy hoa đẹp , nếu có ai gọi em là Đỗ Quyên thì không sao )
-??
- Anh muốn được yêu em
- Thì anh vẫn yêu em mà
- Không, em không hiểu sao ?
- ??
- Em cho anh nghe, cho anh nghe nguyên trinh của em. còn mấy hôm nữa anh đi rồi, đó là quà em tặng cho anh, cuộc đời con gái của em, nghe Đỗ Quyên, nghe Đỗ Quyên !
Lúc đầu em sợ, nhưng sau đó em nghĩ anh yêu mình và sau này anh sẽ là chồng mình thì cho trước hay sau cũng rứa thôi, và như vậy khi anh đi lính, anh có gì đem theo để nhớ mãi em . Và em đã cho anh đời em đêm đó .
Lúc đầu em rất đau, nhưng anh đã dịu dàng dìu em vào con đường tình đầu tiên vừa hé mở cho em , em đã rung cảm cùng tần số với anh .
Anh đã hứa sẽ yêu em trọn đời và ngày anh đi lính về, em sẽ là của anh mãi mãi ...
Nhưng rồi ngày anh về thật xa, em vẫn chờ cho đến ngày em phải đi học xa, em lên thăm ba anh và các chị . Lúc em ra bến xe lấy xe đò về Sàigon, Ba anh hôn lên tóc em, nói :
- Con nhớ chờ anh con nghe con .
Em gật đầu trong nước mắt
- Dạ  con hứa . 
Lúc đầu em vẫn có thư và tin tức anh , anh mãn khoá Võ Bị Thủ Đức, đâm đơn vào Binh Chủng Biệt Động Quân, em hỏi anh tại răng, anh nói anh thích đấm đá và vì ở Binh Chủng này, bạn anh rất nhiều Rồi  chiến tranh lan rộng , đơn vị anh đóng ở Pleiku, đơn vị anh phải đi hành quân hoài, nhất là đại đội anh là đại đội trinh sát nên phải đi trước vài hôm, rất nguy hiểm.  Nhiều hôm, rất đặc biệt anh được nghỉ phép, em lấy xe đò  về Pleiku thăm gia đình anh vài hôm để có thời gian thăm  anh vài giờ vì em không có quyền ở trong trại với anh. Rồi đơn vị anh di chuyển ở những chiến trường khác và em mất bặt tin anh.
Vài lần  em có lên gặp ba và các chị, chắc lúc này em nhớ anh nên gầy hẵn làm các chị cũng lo cho em không đủ sức chịu đựng và ái ngại cho em, ba và các chị cũng như em, không có tin tức gì anh cả . Rồi em phải đi học ở Nhật, xa nhà . Các chị đi lấy chồng, mình cũng ít có tin tức nhau. Chị Thanh cho em hay Ba bị tim trở lại nặng vì buồn, rồi thôi, chị không nhắc nhiều đến Ba nữa, em không hiểu tại răng, hay sức khoẻ Ba không ổn mà mỗi lần em viết thư về thăm, các chị chỉ lơ là, nói là Ba mệt thôi.
Mấy năm sau em về lại quê hương, em lên thăm B, thì hay tin Ba đã mất, chị Thanh không muốn thấy em buồn vì Ba, vì anh nên giấu tin.
Em đau đớn chi lạ, mất anh, mất Ba, các chị đi lấy chồng, em cảm thấy mình thật bơ vơ .
Chiến tranh đã đến lúc quá quan trọng, đâu đâu cũng nghe tiếng súng từ thôn quê đến thành thị...cho đến ngày 30 tháng 4 /75 thì mất nước, và từ đó bặt tin anh luôn.
Mấy năm sau em nhận được một lá thư của chị anh, nói là anh biệt tích, không biết anh còn hay chết hành quân ở chiến trường nào hay đã thây ngựa bọc xương nơi rừng sâu, núi hiểm. Trời mơ em sụp đổ  . Đợi chờ em chừ chỉ là một mớ buồn nhớ vụn , rồi em đi lấy chồng ... và mình xa nhau mãi . Cái buồn trong tim em vẫn chĩu nặng : Em lấy chồng không phải là anh !.......
Chồng em cũng là lính, binh chủng TQLC, anh ấy rất tốt và rất thương yêu em, lúc đầu mới về nhà chồng, chưa quên được anh, nhưng thời gian qua đi, những năm dài đợi chờ anh vô vọng, cùng với một người chồng quá thương vợ , em cũng cảm động rồi tình yêu đến lần lần, tuy không là tình yêu dành cho anh nhưng cũng trạng trạng vậy. Có điều các anh là lính, hành quân rày đây mai đó, rồi một ngày em nhận được giấy báo tử, chồng em chết trong trận đánh cuối cùng ở Đà Nẵng, anh đã bị trúng mảnh pháo địch trong lúc trên đường rút lui, bị thương nặng, nhờ đồng đội cố gắng cứu được anh để đưa về quân y viện nhưng anh ấy đã chết trên tay Hân, người bạn thân của anh ấy, đem được xác anh về chôn ở nghĩa trang QĐ BH. Số trời đã định cho em làm người yêu của lính  rồi thành goá phụ.
Mấy năm sau gia đình chồng vượt biên, dẫn em theo, cũng may nhờ trời biển yên gió lặng và không gặp hải tặc, thuyền em được tàu Mỹ rước cho lên và đưa về Subic Bay, ở trong trại tị nạn với gia đình chồng 2 năm và được bảo trợ của người anh chồng nên gia đình đến Mỹ.
 
***
Đầu năm nay, nhân dịp đi ăn Tết của hội đoàn TQLC ở Cali, tôi bỗng gặp lại một người bạn cùng khoá của Phú ( anh_ người cũ ) cho tôi hay anh còn sống, sau trận đánh cuối ở gần Saigon, anh bị thương, với một người bạn đồng đội, hai người gắng trốn về Saigon nhưng bị bắt và đi tù cải tạo ra trại giam ở Đồng Ban gần CàTum, sát biên giới Việt_Miên. Ở đó gần 10 năm, anh được thả về Saigon, nhưng anh bị mất tờ Giấy Ra Trại nên anh bị phải đi kinh tế mới trên Dầu Tiếng.
Người bạn cùng khoá Thủ Đức với anh là một cựu Điạ Phương Quân, bạn thân của anh kể với tôi là Phú nghèo lắm, vì không có giấy ra trại nên không tìm được việc làm, Phú đi kinh tế mới làm nghề đốn củi làm than mang về SàiGòn bán, anh sống lay lất qua ngày, sau đó anh gặp một người đàn bà con gái của uỷ ban tỉnh anh đang ở, nghe nói cô ta hồi xưa học chung trường với Phú, mê Phú vô cùng nhưng lúc đó Phú đã yêu tôi nên cô ta buồn lắm, bây giờ cô ta gặp lại Phú, thấy hoàn cảnh Phú như vậy, cô ta muốn lấy Phú làm chồng.
Hoàn cảnh trái oan quá, nghèo, mất tôi nên Phú nhắm mắt ừ đại. Phú sống với cô ta có được 2 đứa con một trai, một gái. Lúc sau này Phú bàn với vợ trở về Pleiku mở quán ăn ở đường Hoàng Diệu cũ. Nghe bạn anh nói, tôi nghĩ Phú muốn về lại Pleiku là để tìm lại những dấu tích bạn đồng đội cũ và có thể để nhớ cuộc tình đầu của anh với tôi?
Hai tháng sau, tôi bốc vé về ViệtNam thăm lại quê hương vì từ khi đi vượt biên đến giờ, tôi chưa hề đặt chân trở lại quê hương, và mục đích chính là muốn gặp lại Phú xem bây giờ  ra thế nào.
Về đến Saigon, tôi ở đó 2 ngày, đi thăm mộ Hân ở NTQDBH xong lấy xe đò về Pleiku tiện thể thăm chị Thu Hương, người bạn vẫn xem tôi như đứa em gái.
Sau một ngày ở chơi với anh chị, tôi gọi xe ôm ra phố. Pleiku bây giờ thật xa lạ, từ hàng quán, người, đường xá dơ và lộn xộn, buồn nhất là nhớ những ngày còn Lính đóng quân ở đây, những chiếc xe Jeep, GMC, đầy đường, những ngày xưa thân ái mà bọn con gái chúng tôi ai cũng thèm được làm người yêu của lính...Bây giờ toàn là xe máy, nhà cửa ai muốn xây sao thì xây, dân thì tứ xứ, thấy chán, nhất là tình cảm của mình đã bị thương nặng.
Tôi tìm đến địa chỉ quán của Phú, bước vào tìm một bàn trong góc để tiện nhìn. Người đàn bà người Bắc coi cũng không đến nổi tệ, loay hoay với công việc bếp núc vì lúc này khách cũng khá đông.
Hai đứa con anh mặt mày sáng sủa, tôi thấy chút chạnh lòng nếu anh cưới tôi, thì con chúng mình sẽ ra sao Phú nhỉ?
Đang vơ vẩn nghĩ, tôi không thấy người đàn ông đi đến bàn tôi  chào
_Cô dùng gì ạ? Tôi giật mình ngửng mặt: Phú không nhìn ra tôi, tôi lắp bắp vì quá bất ngờ nhìn thấy người xưa, anh thay đổi nhiều, mặt anh không còn nét dễ thương ngày xưa, mà phong trần, rám nắng, người anh gầy, lưng hơi còm chắc lúc đi tù làm việc nặng, rồi lại đi đốn củi làm than...
Tôi run giọng gọi một tô mì Quảng, vài phút sau anh ta mang đến cho tôi. Tôi cúi gầm mặt ăn thật mau. Tôi gọi anh đến tính tiền, Phú hỏi tôi có muốn uống thêm gì không, tôi lắc đầu, Phú vẫn đứng dù đã thối tiền xong, anh lặng lẽ nhìn tôi, hình như muốn hỏi tôi điều gì.
Tôi vội vã đứng dậy chào Phú và ra cửa đi thẳng. Chừng vài bước, tôi lén quay lại nhìn, Phú vẫn đứng ngay cửa quán nhìn về phía tôi, có vẻ phân vân...
Tôi buồn nên muốn đi một vòng phố Pleiku tìm lại những kỷ niệm cũ, tình cờ thấy mình ngang qua nghĩa trang của thành phố này, tôi chợt nghĩ đến Hân chồng mình đang nằm ngủ giấc thiên thu trong NTQĐ BH ở Sài gòn, thấy có quán bên đường bán đủ thứ, tôi ghé vào hỏi bà chủ có nhang không, bà bảo có, tôi mua một thẻ nhang và hộp quẹt máy, bà ta tò mò hỏi tôi bộ tôi có  thân nhân chô ở đây, tôi gật đầu để khỏi bị hỏi tới, trả tiền rồi bước ra.
Tôi đi một vòng nghĩa trang, tìm thử trên những mộ bia có hình lính nào không, thấy có vài tấm mộ có hình và tên tử sĩ, trời ơi, có vài em mới có 19 tuổi đầu! Tôi ngồi xuống thì thầm khấn và thắp hương. Nghĩa trang thật tiêu điều không ai chăm sóc, nhất là những ngôi mộ lính, thấy lòng buồn sao đâu!
Xong tôi ra cửa, gọi xe ôm về nhà chị Thu Hương, Pleiku chiều hơi lành lạnh, và hình như mưa? không , không phải mưa mà là lấm tấm vài hạt nước mắt đang rơi dài trên má, nhớ Hân, nhớ Phú...những hạt nước mắt của mình, nước mắt Đỗ Quyên.

đông hương

mardi 5 février 2019

LỠ HẸN MÀ...


Tuy hẹn đã già _chưa gặp mặt
hôm nay thêm một tuổi Xuân hồng
trên tờ lịch_đúng đầu năm mới
sợ ngày đến hẹn_lại về không!
*
Có những đợi chờ không hề đến
tàn theo ngày tháng giữa rừng thiêng
em thử chơi vơi như cánh én
băng đại dương tìm một trái tim
*
Ngưỡng của thiên nhai then cài rỉ
em quên mang ngọn lửa tri tình
hơ nóng chung quanh chìa khoá mị
cho lệ đừng thành hoa cố nhân
*
Lỡ nếu không ai chờ quán hẹn
một mình làm chi hết thời gian
yêu thương chìm nổi trong giòng đắng
rồi mơ oà vỡ mặn miên trường

đông hương

lundi 7 janvier 2019

SẮC HOA THỜI LOẠN

Đi vào trang nhà tim một chuyện ngắn để gửi vào diễn đàn mới, chợt nhìn thấy lại Sắc Hoa Thời Loạn, chuyện mà tôi ưng ý nhất, lấy ra gửi lên đây cho ai chưa đọc. Mỗi lần đọc lại, nước mắt cứ ào ra, và nhớ một người đã cho tôi những cảm xúc mạnh này .Cám ơn lời bình cho truyện của hai nhà thơ Sông Cửu và Hồng Vũ Lan Nhi
đht

Lời bình của nhà thơ Hồng Vũ Lan Nhi cho chuyện SẮC HOA THỜI LOẠN
*

Bây giờ mới đến chuyện của riêng tui. Khen Donghuong viết hay ư . Không, LN không khen đâu, ...mà phải nói rằng, văn phong vững chãi quá, như là đã từng sống trong thời chiên tranh, và hơn nữa, như là chính tác giả đã từng là nhân vật chính sống trong hoàn cảnh của một người... mang thân đi bán cho đời, để mưu sinh sống giữa trời nhục đau ... lầu vàng gác tía còn đâu, tấm thân trinh trắng nhuộm sầu nhớp nhơ. Cuộc đời thay đổi bất ngờ, trăm năm mộng đẹp, một giờ nát tan. Ai hay lòng úa thân tàn, nhìn trăng bóng xế, đời tan tác đời . Dám đâu mong gặp được người, hiểu cho hoàn cảnh tả tơi hoa hèn ... Đã bao lần, đã bao phen, muốn tìm cái chết oan khiên phận này . Dim mình trong những cơn say, quên đi ngày tháng đọa đầy xác thân ...Còn đâu nữa những mùa xuân, chỉ toàn đông giá lạnh căm nhục nhằn ...Nhưng rồi, buốt gia xua tan, nụ mai vàng nở báo xuân đã về . Vòng tay khép kín đam mê, Lời ru ngọt giọng cho tê lịm hồn ... Đời bầm dập bỗng tươi hồng, môi tình hé nụ, hương nồng nàn say. Lệ vui trào ứa mắt cay ... Ai ngờ` đời lại có ngày lên hương . Cùng nhau tâm sự đoạn trường, cùng nhau hò hẹn tương phùng mai sau ... Vẫn là một cuộc bể dâu. Chứa chan hy vọng tằm dâu kết tình ... Một lòng tiết liệt đoan trinh. Giữ cho nhau chút ân tình đáy tim . Cám ơn đời đã không quên, có một cô bé lọ lem yêu đời. Cám ơn anh, cám ơn trời Cám ơn đời, cám ơn trời, ơn anh! ..
Donghuong ơi, tự nhiên chia chút tâm tư thôi ...
hvln
....

Lời bình của nhà thơ Sông Cửu cho SẮC HOA THỜI LOẠN.
B Sông Cửu
21 février, 04:12

Rất tuyệt vời! Theo cảm nhận riêng tôi. "Sắc Hoa Thời Loạn"là tác phẩm mang tính văn học sử cần lưu trử, vì nó lột tả được chính xác cuộc chiến tranh ý thức hệ huynh đệ tương tàn của đất nước VN. Bút pháp thật lôi cuốn... Dằng xé đau đớn và kết thúc rất có hậu. Không biết sao đọc "Sắc Hoa Thời Loạn" của Đông Hương tôi lại nghỉ đến "Cánh Đồng Bất tận" của Nguyễn ngọc Tư. Hai tác phẩm Văn Học phản ảnh hai thời kỳ "Chiến tranh và Hòa Bình" . Hai tác giả miêu tả khiến người đọc xúc cảm như nhau. Nhưng kết thúc thì chuyên chiến tranh lau nước mắt thở phào rồi cười được...Còn truyện thời hòa bình thì xem xong lòng thấy cay xé khó tìm ra lối thoát... Xin chân thành cám ơn ĐH TN và Nguyễn Ngọc Tư. Mong đọc được nhiều tác phẩm mới tiếp theo
SẮC HOA THỜI LOẠN
*
Đây là chuyện thật của người bạn học cũ của tôi và người lính Biệt Động Quân VNCH, sau 40 năm thât lạc nhau vì chiến tranh, một bất ngờ duyên trời đã cho anh chị gặp lại nhau, và tôi được nghe anh chị kễ cho tôi về một phần đời của họ đầy vui, buồn, sợ hãi, chán chường của một người con gái đẹp đã vì hoàn cảnh mà ra nông nỗi ấy, của một người trai thời loạn thất chí, vì không làm tròn trọng trách đối với núi sông. Hôm được anh chị mời đến nhà chơi, qua một tách trà sen Huế ( anh chị và tôi đều gốc Huế ), anh nhìn vợ, âu yếm bảo:
- Em kễ lại chuyện tình mình cho Mousti ( nick của tôi ) nghe đi, anh nghĩ Mousti sẽ thích chuyện tình đẹp của mình, đẹp như một cổ tích...và chị bắt đầu kễ, anh ngồi nghe,lâu lâu thêm vào một vài chi tiết..
Anh nhìn tôi, tay vuốt tóc chị, nói với tôi:
- Cánh Hoa Thời Loạn . Xong quay lại nói với chị:
Anh phải đem em về lại Huế ngày nào đó nhé cưng.
Hạnh phúc thật là nhỏ bé mà đồng thời cũng thật lớn vô cùng.

*****
gặp nhau chỉ có một giờ
tình yêu bất tận chẳng ngờ tái sinh...( Thơ của anh )

*
Tôi mất anh đã hơn 40 năm rồi, ngày mà quê hương còn rền vang tiếng súng, tiếng đại bác.. của những trận chiến ác liệt như Pleime, Đồng Xoài, Bình Giã...
Lúc đó tôi còn là một người đàn bà 25 tuổi, mở một quán rượu gần đồn lính, thời bấy giờ không biết làm gì để nuôi cuộc sống còn của mình, cha mẹ chết, có người yêu đi lính cũng đã gục ngả trên chiến trường, nhà cửa tiêu tan vì chiến tranh, buồn quá, nhân có con bạn học cũ hoàn cảnh gần như tôi, nhưng nó còn đau hơn tôi là chồng nó bỏ gia đình đi tập kết ra Bắc, bỏ lại vợ con nheo nhóc buôn thúng bán bưng sống qua ngày. Hai đứa tôi, nhìn vẫn còn mặn mà lắm, ngày còn đi học là hai hoa khôi của Gia Long. Bây giờ nghĩ lại thời gian đẹp này chỉ còn trong hoài niệm. Tôi bây giờ đau đớn nói ra, mình đã là một cô gái giang hồ, nôm na là gái điếm. Khách của Vân và tôi gần như là lính, vì thành phố tôi đang ở gần một trại lính. Vân rủ tôi mở quán rượu ở đây vì vậy, lính là những người không có tương lai, sống chết không biết ngày nào nên họ ăn chơi bạt mạng, hễ cuối tháng lảnh lương ra là đến quán nhậu, rượu chè, gái...họ sống như vậy, lao mình vào những ly rượu mạnh hay những cuộc truy hoan để quên nỗi sợ những tiếng súng, những tiếng đại bác, những hầm chông cọc nhọn đang chờ, quên đi tử thần đang rình đâu đó.. Cũng may là Vân và tôi không còn gia đình, nếu không tôi không biết phải ăn nói làm sao với cha mẹ mình về cái nghề tôi đang làm! Lúc mới đầu chưa quen với nghề này, tôi ghét lắm những bàn tay vô tình để lên không đúng chỗ trên thân tôi, hay tiếng đùa giởn quá trớn của những anh lính uống say, khi tôi đi ngang qua bàn, víu vài tôi xuống, ôm mặt tôi đặt chiếc hôn nặc nồng mùi rượu... có lúc tôi chán nản, muốn bỏ nghề đi tìm một nghề khác dù không đủ tiền nuôi mình, nhưng sau đó, ngày qua ngày, tháng qua tháng rồi cũng băt đầu quen. Tuy vậy nhiều khi nhì Vân ngả ngớn với mọi người, ăn mặc hở hang, lắm lúc nó ngồi luôn trên chân khách, ỏn ẻn như muốn làm tình luôn ngay tại chỗ. Tôi nhìn những cử chỉ ấy, rồi thấy tởm cho chính mình luôn. Có những chàng lính trẻ khuôn mặt còn non, có thể nặn ra sữa được, phần đông là học sinh bị rớt Tú Tài, đến tuổi phải đăng lính thì nhiều lắm là cỡ tuổi em trai út mình thôi, vậy mà phải chịu đựng khói thuốc trong căn phòng bẩn không mấy sạch, vì làm gì có thời gian để thay đổi chiếu, chăn, nhiều đêm phải tiếp vài người khách là gần trắng đêm rồi, vì họ cho rằng tiền trao cháo múc, có những lần tôi gọi là xáp la cà vì sự hùng hục không chút dịu dàng, sao cho thoả mản sinh lý là được, không tình cảm trong đó, chính tôi, tôi cũng chẳng muốn có tình cảm, tôi tuy là một gái điếm nhưng tôi vẫn trọng phần hồn mình, chuyện làm tình với bất cứ ai chỉ là chuyện kiếm cơm mỗi ngày, không ăn thua gì đến trái tim mình cả, quan niệm tôi là vậy. Tôi cũng không bao giờ hy vọng hay ước mong ngày nào đó sẽ có một người sẽ đến yêu tôi và đưa tôi ra khỏi chốn bùn nhơ này. Rồi ngày tháng vẫn trôi qua, cuộc đời của Vân và tôi vẫn vậy, vẫn nhịn nhục chìu chuộng những người đàn ông thoáng qua đời chúng tôi trong vài giờ ngắn ngủi rồi ra đi, không để lại chút gì luyến tiếc. Tiền trao cháo múc mà ! Rất hiếm những lần truy hoan có người nhìn tôi âu yếm, hay cử chỉ dịu dàng, chỉ có vừa mới chưa kịp cổi đồ là mình đã như con vật bị lên bàn mổ vậy, hùng hục, hùng hục, đúng như nghĩa của chữ này vậy, xong rồi, nằm thở dốc, hút điếu thuốc, mặc lại quần áo và mở cửa bước ra, không một lời chào hay một cái ngoắc tay từ giả.... Toán lính này đi, toán lính khác đến, không co gì thay đổi trong cuộc sống, không biết Vân nghĩ thế nào, phần tôi, tôi nhầy nhụa thêm như mình đang lội trong vũng bùn cuộc đời vậy.
Vậy mà, một hôm anh đến, anh vừa đổi đến đơn vị này; hôm ấy là ngày phép của anh, anh theo đồng bạn đến quán, gọi một chai martell thứ nặng nhất, mắc nhất uống với nhau. Con Vân đi ngang bàn, ngả ngớn với bạn anh, vuốt tóc anh, anh để tự nhiên cho Vân làm, chỉ mỉm cười chào lịch sự. Bàn anh gọi thức nhậu, Vân lo tán tỉnh với bạn anh, nó ngoắc tay nhờ tôi làm giùm. Tôi mang mấy dĩa đồ nhậu đến bàn anh, tôi thấy ánh mắt anh đậu lại trên mắt tôi một khắc, mỉm cười cám ơn; cà bàn gom tiền lại trả, anh móc túi cho riêng tôi một số tiền khá, anh cầm tay tôi, mở tay tôi ra, đặt tiền vào đó và đóng tay tôi lại, rồi thôi.
Chiều ấy, anh nói với Vân muốn tôi tiếp anh, tôi bằng lòng, đưa anh lên phòng . Trong lúc anh ngồi trên ghế, tôi lấy drap và áo gối mới thay, vì chăn chiếu cũ đã có nhiều người nằm trên ấy, mùi thuôc lá, mùi đàn ông, những dấu vết vàng vàng của những lần làm tình trước dơ dáy.
Không hiểu vì sao tôi lại đối với anh đặc biệt như vậy, tôi cũng tự đang hỏi mình. Anh có một khuôn mặt thật...tôi không biết tả ra sao, cái nhìn ấm áp khi anh nhìn tôi. Sửa soạn giường gối sạch sẽ, tôi như bình thường, mời anh lại giường, tôi đứng cởi đồ trước mặt anh, xong tôi dìu anh nằm dài xuống, và từ từ cổi quần áo cho anh, anh để yên cho tôi làm, xong tôi ngồi xuống giường, nằm xuống cạnh anh, anh dang tay anh ra cho tôi đặt đầu lên, xong quay lại vuốt tóc tôi, hôn lên môi tôi dịu dàng, làm tôi hụt hẫng, bất ngờ trước những cử chỉ trìu mến ấy, rồi anh bắt đầu cuộc chơi. Tôi thú nhận là lần đầu tiên từ ngày tôi làm điếm, tôi có cảm tưởng như tôi là người con gái còn trinh được người yêu yêu mình lần đầu, có một rung động không tên chuyền vào tôi, tôi đáp trả lại anh, tôi không gọi lần này là cuộc truy hoan của một người đàn ông và cô gái điếm. Xong cuộc, anh lấy tấm khăn để trên bàn lau cho tôi và anh, xong anh bảo tôi nằm yên đó, anh chồm dậy lấy bao Capstan châm lửa hút, chợt anh nghe tôi ho, anh giập tắt ngay điếu thuốc chưa kịp hút.
- Tôi làm em ho? Em không chịu được khóí thuốc?

tôi giật mình xin lỗi nói không phải vì khói thuốc mà ho mà tại tôi có cái tật từ nhỏ là nhạy cảm, và lúc nào bị xúc động là tôi ho. Nghe tôi trả lời, anh ôm đầu tôi lại gần và hôn tôi như anh đang hôn người tình của anh vậy. Rồi hứng lên, anh lại đưa tôi vào cuộc chơi thứ nhì.
Sau lần yêu này, anh đặt đầu anh giữa hai vú tôi, hôn lên đó, và hai vai anh bỗng rung lên, anh khóc nức như đứa trẻ làm tôi sửng sốt. Tôi ôm đầu anh, trìu mến, hỏi anh nguyên do nhưng anh không muốn trả lời...
Anh và tôi nằm yên như vậy một lúc lâu, tôi không còn nghe anh khóc nữa, tôi nhìn anh, anh đang ngủ trên ngực trần tôi. Tôi lấy tay gỡ nhẹ đầu anh, đặt đầu anh lên gối, nhìn anh ngủ, lòng tôi chùng xuống, một tình cảm mới mẻ hiện ra trong tôi không có tên.
Tôi đứng dậy đi tắm và trước khi xuống quán, tôi nhìn anh ngủ, tôi cúi xuống đặt lên môi anh một chiếc hôn hình như có thương yêu trong đó, tôi cũng không hiểu luôn cử chỉ này tại vì sao nữa ! Từ ngày hành nghề, tôi luôn tránh nếu có thể những chiếc hôn môi, cái cảm giác lợm giọng hôi nồng nặc thuốc lá và rượu làm tôi muốn ói, nhiều khi khách hôn mình, tôi muốn đấm vào mặt khách một cái, đạp cái thân thể trần truồng xuống đất và chồm dậy mặc nhanh áo quần, chạy trốn như vừa gặp phải ma. Vậy mà chính tôi lại hôn anh.

Tôi xuống quán xem Vân có cần đến tôi không, nhưng tối nay ít khách nên Vân để cho tôi yên.
Tôi xuống bếp làm vài món ăn đem lên phòng, anh đã tỉnh, vẫn nằm yên trong tư thế con nhộng,trên môi một nụ cười hóm hỉnh, nhìn tôi như nói:

- Em thẹn thấy anh trần truồng phải không? Tôi cười nhẹ không trả lời, trả lời sao bây giờ trong hoàn cảnh tôi, một cô gái điếm mà lại mắc cỡ đứng trước người đàn ông trần truồng như gái nhà lành !
Tôi nói anh đi tắm rồi ra ăn cơm với tôi.Trong lúc anh tắm, tôi lại giường, nằm xuống úp mặt lên gối, ngửi mùi tóc anh và mùi mồ hôi anh còn thoảng trên đó, có chút gì thật dễ thương khó quên!
Xong buổi cơm chiều, hai đứa cổi hết đồ, ôm nhau nằm trên giường, chợt nghe anh thở dài, tôi hỏi anh tại sao và anh chưa hề hỏi cho biết tên tôi cũng như tôi chưa biết tên anh, anh nói:
- Anh với em, mình không có tương lai, mai anh đi rồi, biết sống chết ra sao, và em cũng vậy, ngày anh may mắn còn sống trở về, chắc gì mình còn gặp lại nhau, thì thôi nếu em có chút tình cảm cho anh thì cứ giữ vậy làm kỷ niệm, anh không hề xem em là cô gái giang hồ, chỉ xem em là người con gái bất hạnh của cuộc đời trong chiến tranh mà thôi.
À, mà đây, vừa nói anh vừa tháo ở cổ anh sợi dây chuyền vàng có miếng mề đay nhỏ bằng vàng hình trái tim, có khắc số quân của anh. Tôi ngơ ngác, giương mắt nhìn anh:

- Đó là quà cuối cùng của Mẹ anh cho anh trước khi bà mất trong Tết Mậu Thân Huế, bà cho thợ vàng khắc số quân của anh khi lỡ anh chết trận, có trên cổ anh vừa tấm thẻ bài lính và số quân này, như vậy chắc ăn hơn, bà nghĩ vậy. Bây giờ anh gửi tặng em, giữ lấy như quà cưới, vì hôm nay anh không ngờ trước một sự gặp gỡ dễ thương và đáng nhớ như vầy, xem như hôm nay là ngày cưới anh và em, và đêm nay là đêm động phòng của mình. Anh cảm nhận được tình cảm em qua mấy lần yêu nhau chiều nay, em đã đặt tình cảm em trong đó; anh hiểu rõ lắm, vì trước đây, anh cũng đã sống trong trụy lạc, mê đắm trong thuốc lá, trong rượu, cùng gái điếm với những đêm truy hoan nhưng thú thật em, chỉ vì lâu ngày thèm khát đàn bà, với em hôm nay, anh không thèm khát chuyện xác thịt, lúc đầu anh cũng nghĩ sẽ như những cuộc truy hoan với những cô gái giang hồ khác ( trong cuộc nói chuyện, anh vẫn tránh chữ gái điếm, và tôi thầm cảm ơn, sự tế nhị này của anh. )nhưng hôm nay thì không, anh có cảm tưởng người đang nằm bên anh là người yêu của anh.
Anh xem em như người bạn đời của anh dù chỉ gặp nhau trong một đêm, và cuộc tình ngắn ngủi này sẽ theo anh suốt dọc quãng đường anh đi tiếp. Tôi tháo chiếc nhẫn bạc kỷ niệm sinh nhật 18 tuổi của mình, đeo vào ngón tay út anh.
Tôi tắt đèn, và hai đứa lại lao vào những trận yêu bỏng cháy đầy tình cảm...
Liên tiếp tuần sau đó, tôi gặp lại người lính không tên này ngày chủ nhật. Anh đến quán cùng với vài người bạn lính khác, các anh và anh, nhất là anh vẫn oai hùng trong bộ quân phục với áo hoa rừng và chiếc mũ nâu, cũng vẫn khuôn mặt dễ mến mà từ tuần trước khi anh ra về, tôi ra điều kiện với Vân, nếu Vân còn muốn tôi giúp Vân trông nom quán tiếp Vân, tôi sẽ không tiếp khách nữa. Vì hình như tôi vẫn đợi anh đến, tình cảm tôi hình như có sư đổi thay, và hình như tôi có linh tính là cuộc đời tôi đang đến một ngã rẽ khác.
Anh ngồi chơi với bạn, uống một chai bia lạnh hiệu 33, trong không khí đầy khói thuốc lá, mùi rượu, những mẫu chuyện lính đầy tính chất gái giang hồ, và sexe; tôi lén để ý anh, anh chỉ ngồi cười nghe bạn, không hoà đồng vào với bạn, Vân lăng xăng ôm cổ người này đến người khác, bằng lòng cho khách hôn hít, sờ soạng...
Tôi đứng yên sau quầy rượu, giã vờ lau ly, cốc... Anh quay lại nhìn tôi, mỉm cười chào nhẹ bằng một nụ cười thật hiền và dễ thương. Anh làm hiệu cho tôi đến gần anh, anh đứng dậy kéo ghế cho tôi ngồi cạnh. Nhiều bận mấy đồng đội anh định giở trò ờm ờ, những cử chỉ như đối với Vân, anh đưa tay như bảo họ stop, và lạ lùng nhất là họ nghe anh răm rắp, tôi nghĩ trong toán lính này, anh là huynh trưởng của họ, vai vế lớn hơn.
Sau đó, chiều lại, mấy người lính kia đứng dậy đi về trại, anh ngồi lại quán, hỏi Vân với tôi có thể cho anh ăn cơm chiều ở đây không, Vân cười nhìn tôi, ý là cô nàng hiểu anh muốn gì.
Vân đứng dậy dọn ly cốc và vỏ chai không trên bàn, đem đổ tàn thuốc, đưa mắt cho tôi như bảo : Mày lo cho chàng đi. Mâm cơm chiều này tự tay tôi nấu, ngon hay vì cảm tình anh dành cho tôi mà anh thấy ngon?
Chiều nay anh uống hơi nhiều một chút, rồi ngà ngà say, Vân và tôi không để anh về một mình, giữ anh lại cho anh ngủ lại đây .
Sáng hôm sau, khi anh ấy dậy, tôi pha nước cho anh tắm, bưng điểm tâm lên phòng cho anh vì tôi muốn hưởng trọn với anh ấy những giờ phút cuối trước khi anh ấy trở về đơn vị.
Anh kéo ghế sát lại, bảo tôi ngồi cạnh anh, một tay anh cầm cốc café, tay kia anh ôm ngang người tôi, tôi cảm nhận được hơi nóng từ thân thể anh thấm vào người tôi, lòng tôi nhũn ra, nước mắt muốn ứa nhưng không dám vì sợ anh buồn biết tôi đang buồn.
Anh ôm tôi chặt trong vòng tay mạnh mẽ của anh, chặt nhưng trìu mến chứ không như lũ khách tôi thường gặp.
Rồi cũng phải đến giờ xa nhau. Anh cầm tay tôi, quàng cổ tôi đi xuống cầu thang, tôi không để ý đến bao thuốc Capstan anh quên trên bàn. Xuống quán, anh hôn má Vân từ giã, và hôn tôi nồng nàn, môi tôi và anh như bị gắn chặt bởi một thứ keo đặc biệt mà thiên hạ gọi là keo sơn. Vân hỏi anh bao giờ anh ghe ngang, anh chỉ cười, đưa tay lắc lắc như nói không biết được, rồi anh đi. Tôi nhìn theo bóng anh, tim tôi muốn ngất đi vì thương nhớ.
Tôi bỏ Vân một mình vì sớm quá, quán chưa đông, tôi lên phòng, đóng cửa định ngồi khóc cho đã, chợt nhìn thấy trên bàn gói Capstan anh quên, nhưng tôi biết anh xa rồi nên thôi. Tôi mở gói thuốc xem còn thuốc nhiều hay không, chợt tôi khựng lại; trong bao thuốc có một bao giấy gói, tôi mở ra xem: một photo anh ngày còn sinh viên chắc, vì trẻ lắm, một số tiền và một lá thư ngắn có theo một bài thơ
- Em giữ hộ anh nhé khoảng tiền lương tháng này anh vừa lảnh, vì lúc này anh chưa cần đến, và anh tặng em hình chụp ngày anh vừa 17 tuổi như một kỷ niệm. Em giữ số lương anh đến khi nào gặp lại anh em hãy đưa trả anh, còn nếu rủi không gặp nữa, em cứ giữ lấy phòng thân vì không ai biết ngày mai như thế nào với chiến tranh,

GỬI EM CHÚT QUÀ
( Bài thơ này anh viết trong đêm khi em ngủ ngoan giấc bên cạnh, anh ngồi dậy viết vội tặng em. )
*
mai lên nớ bao giờ gặp lại
ta biết em trong phút si cuồng
thằng lính trận thấy lòng ấm lại
tình của mình dù chỉ một đêm....
*
mai lên nớ thèm môi nào ngọt
phút hiến dâng như cả đời mình
ta bỗng chốc thành thằng ngu độn
chín bệ vàng hoàng hậu nương nương
*
mai lên nớ say cùng chiến trận
dòng chữ ghi ân hận chút tình
bao giấy thuốc thơm tình lính trận
gửi cho người tấc dạ trung trinh
*
mai lên nớ nhớ thân thể nóng
em rướn người vào bóng trăng tan.....
*
người lính không tên....
*
Trước khi anh đi, Anh hỏi tôi có tấm hình nào không? Tôi mở tủ, tìm được một tấm hình mặc áo dài trắng có gắn huy hiệu bông mai của trường Gia Long, hình này tôi giữ kỹ vì để nhớ thời gian mình còn là một nữ sinh trong trắng chưa vướng bụi đời. Tôi đưa cho anh, anh bảo như vậy những khi nhớ tôi anh sẽ nhìn cho nhớ mặt tôi vì hình lúc 10 năm về trước và tôi bây giờ không khác nhau bao nhiêu, tôi ngồi thừ trước hình anh... nước mắt chan hoà..
Sáng hôm sau, anh dậy sớm trở về trại vì đã hết phép. Anh hôn tôi nồng nàn, từ giã Vân và tôi. Tôi nhìn theo anh...hình như tôi vừa mất một cái gì thật thương qúi..
Quán Vân và tôi bây giờ khách thật đông, ngoài trại lính bên cạnh, tấp nập khách thương di chuyển hàng ngang thành phố, thêm gia đình vợ con lình cũng lên đây để thăm viếng chồng, anh, em trai cho tiện. Quán bây giờ không còn là ổ gái giang hồ mà là quán café và quán ăn. Vân cũng chán cái ghề mà thiên hạ vẫn gọi là nhơ nhớp và đê tiện. Vân trở về với đời sống bình thường, ngày ngày lo công việc rót rượu và các thức uống, mướn thêm người để tiếp khách, phần tôi vì tôi giỏi về nấu ăn nên Vân để trọng trách này cho tôi đảm đương.
Cuộc đời tôi không ngờ lại có sự thay đổi bất ngờ không tính trước, vì vài tháng sau, tôi đang thái rau cải, bỗng cơn buồn nôn thúc tôi chạy vào nhà sau ói, và tắt kinh: tôi mang thai với người lính không biết tên.
Tôi nửa mừng nửa lo, mừng là tôi sẽ lên chức mẹ, nhận ra tôi đã yêu thương anh ta vô cùng và tôi muốn giữ cái bào thai này như một kỷ niệp đẹp của đời mình, lo là không biết rồi đây cái thai lớn lên, rồi tôi sẽ làm gì và đi đâu, tôi kễ cho Vân nghe, tôi muốn bỏ quán đi về quê quán để sinh nở nhưng Vân cản lại, Vân bảo thứ nhất là tôi mang thai, không chồng lại mang tiếng đồ gái chửa hoang, thứ hai tôi lấy gì để sống và nuôi cháu bé,
Vân bảo tôi hãy ở lại với Vân, nó rất tốt với tôi, thương tôi như ruột thịt, ở lại đây, dù sao tôi vẫn sống qua ngày được, tôi mềm lòng, cảm ơn Vân và tiếp tục công việc của mình.
Đêm đêm trước khi ngủ, tôi vẫn lấy hình người lính không biết tên ra nhìn, nhớ anh ấy như nhớ người tình hay người chồng của mình
. Nhiều khi tôi nghĩ dại, lỡ anh chết ở chiến trường, chắc tôi khóc đến giọt nước mắt cuối cùng, và vui là biết bây giờ tôi còn thêm một kỷ niệm sống với anh sau mấy đêm thương yêu nhau thật như hai người tình.
Ngày tháng cứ theo nhau trôi qua, cuộc sống tạm ở quán Vân và tôi cũng đắp đổi qua ngày. Bây giờ tôi đã sinh nở xong, cháu bé trai ra đời trong tình thương của tôi và Vân.Tôi đặt tên cho cháu là Việt Nam, gọi Vân là dì Vân giùm cho cháu bé. Mỗi lần tôi ngồi cho con bú, tôi nhớ anh ấy kinh khủng, không biết bây giờ tiểu đoàn của anh đã trôi nổi ở chiến trường nào.
Quán chúng tôi bây giờ rất đông đảo, tấp nập đủ hạng khách, nhất là lính . Nhưng lúc này tôi cảm nhận hình như có gì không yên ổn lắm; trên gương mặt của những đám lính đến uống nước ở quán, lúc này có vẻ lo âu, tôi nghe lóm ở họ những tiếng di chuyển, thuyên chuyển, nào những địa danh như Đồng Xoài, Bình Giã...Pleime.
Tiếng máy bay trực thăng rền trên đầu, ngoài đường cái những xe tăng, xe cứu thương, xe jeep, từng đoàn convoi chở đầy lính không biết đi đâu... và càng ngày càng nghe tiếng súng, tiếng đại bác, tiếng bom gần lại. Tôi đâm lo, tôi nói với Vân, Vân cũng nghĩ như tôi, thấy tương lại bấp bênh quá.
Trong toán lính còn đóng ở đơn vi cạnh quán, có một người mặt mày thật chân hậu, dễ mến, xem ra hình như rất cảm nàng Vân và nàng ta cũng vậy, Vân đối với anh ta rất đặc biệt . Thấy anh mặc áo hoa rừng, trên vai có mang chữ V, tôi hỏi nhỏ một người lính bạn anh, anh ấy trả lời, ah, Hậu nó mang lon trung sĩ mà chữ nghĩa lính gọi là cánh gà đó chị.
Một trưa quán ít khách, tôi ngồi ru cháu bé ngủ ở nhà sau, để cho Vân và Hậu ( anh ta tên là Nghĩa Hậu ) nguyên buổi trưa. Lúc Hậu trở về đơn vị, Vân gọi tôi tâm tình
Vân thố lộ với tôi là hai anh chị mết nhau lắm, và Hậu bảo Vân Hậu muốn cùng Vân thành vơ chồng ngày Hậu mãn lính. Vân bằng lòng chờ đợi anh. Vân thú hết với Hậu về đời Vân, nhưng Hậu bảo Hậu không nề hà dĩ vãng của nàng, Hậu bảo Vân và tôi là hai sắc hoa trong thời loạn. Vân rất vui và cảm động tấm lòng độ lượng của Hậu, Vân nói nhưng làm sao anh giới thiệu Vân với gia đình của Hậu ở Đà Lạt lần tới khi anh được nghỉ phép vài ngày, Hậu trả lời không cần phải nói rõ Hậu gặp Vân ở đâu, hơn nữa, anh lớn rồi và anh là lính cuộc đời nay sống mai chết nên anh muốn cho Vân hưởng hạnh phúc cùng anh cho dù vài tháng, vài ngày, vài giây.... Vân hứa sẽ lấy Hậu làm chồng và sau đó sẽ gửi quán lại cho tôi trông nom.
Tuần sau đó, Vân bảo tôi Vân sẽ về thăm người dì ruột ở Quảng Trị và hôm rồi sẽ trở về với tôi trong coi quán và chờ Hậu về. Nhưng Vân sẽ không bao giờ về với mẹ con tôi nữa. Chuyến xe đò trong đó có Vân đã trúng mìn, tất cả xe dều chết hết.
Thế là tôi lại bơ vơ thêm lần nữa, mất người bạn thiết, lạc người lính không biết tên mà tôi đã đem lòng yêu thương, tôi khóc hết nước mắt. Hậu cũng đi rồi, không biết phải ra chiến trường nào! Nhiều lúc nghe tiếng súng và đại bác gầm trong đêm, tôi ước có viên đạn lạc nào đó lấy luôn sự sống của tôi cho rồi, nhưng khi tôi nghe tiếng khóc con thơ bên cạnh, tôi sực tỉnh cơn ác mộng. Tôi đã tự hứa với mình là tôi sẽ nuôi cháu cho thành người vì tôi vẫn có hy vọng có thể ngày nào đó mẹ con tôi sẽ gặp lại người xưa.
Tôi vẫn tiếp tục ngày ngày cho quán, nhưng rồi cũng bối rối quá vì hình như có cái gì đó không ổn. Ngoài đường bây giờ từng đoàn người tay nải, tay bế tay bồng chạy, mà chạy đi đâu, không hỏi ai được, rồi thêm vào đó xe chở lính đầy đường, máy bay trực thăng bay rền trời, tôi cũng đâm hoảng, lúc này không còn thấy lính đến uống nước nữa.
...
Cuối tháng Tư 75.
Đang hoang mang chưa biết phải làm gì thì ngay sáng hôm đó, Hậu không biết từ đâu chạy bay vào quán, réo tôi bảo thu xép vài thứ cần thiết cho cháu bé, bảo hai cô gái giúp quán cũng vậy, tôi đang còn tần ngần không biết đem gì bỏ gì thì Hậu hét to lên bỏ hết, bỏ hết, mau lên, xong Hậu bồng thằng Nam, một tay nắm tay tôi dắt ra cửa, hai cô gái một cô dùng dằng không chịu đi vì em ấy còn mẹ già và em trai nhỏ, bảo chúng tôi cứ đi, để quán lại em lo tiếp.
Hẩu bồng Nam ra xe, trao cháu cho người lính ngồi trên xe, đẩy tôi và cô gái tên Uyên lên xe rồi nhảy phóc lên chỗ tay lái, cho xe chạy thẳng. Trên đường bây giờ thiên hạ như tổ ong vỡ, vừa chạy vừa gào vừa khóc, không còn biết chạy hướng nào nữa. Chiếc xe jeep Hậu phải lách tránh vừa người, vừa convoi lính, phải tay lái cừ lắm mới không đụng ai và cán ai, có nhiều người muốn níu xe lại xin cho quá giang, như Hậu không ngừng, thì giờ cẩn cấp quá rồi. Tôi như con ngáo, hỏi Hậu là thế nào, mới hay là miền Nam đã mất vào tay cọng sản, và chúng tôi đang tìm đường thoát.
Tội thằng Nam, chắc nó cũng cảm được gì đó không an, nó ngồi êm rơ trong lòng người lính. Xe chạy như vậy không biết đã bao lâu và hướng nào vì đi từ sáng sớm tinh mơ, giờ đã tối thui. Hậu bảo chúng tôi là sắp đến Vũng Tàu. Tôi và cô gái cũng không dám hỏi thêm.
Sau cùng, tôi nhận ra bãi biển Vũng Tàu với những hàng dừa như ngái ngủ bây giờ bị dựng đầu dậy bởi tiếng khóc, tiếng réo, tiếng cầu cứu loạn xà ngầu của đám người chạy loạn cũng đang tìm cách thoát ra khơi bằng đủ cách. Vì Hậu hình như đã tính toán săn trước nên khi vừa đến Bãi Trước, anh hối mọi người theo anh chạy xuống mé biển, ở đấy đã có sẵn một chiếc tàu quân sự nhỏ đang chờ chúng tôi, anh để người lính bạn nhảy lê tàu trước, đưa Nam cho anh ta , xong đến cô gái, đến tôi và Hậu cuối cùng, chiếc tàu nhỗ neo chạy vọt ra khơi.
Chiếc tàu chúng tôi chạy ra xa, và tiếng máy hình như vừa ngừng lại, trước mắt là một chiếc tàu lớn của binh chủng Mỹ vì có treo cờ Mỹ. Chiếc tàu dừng hẵn lại, trên tàu Mỹ, có mấy người lính Mỹ thả xuống một cái thang bằng dây. Hậu bảo người lính bạn leo lên, Hậu buột cháu Nam trên lưng anh ta, xong Hậu đỡ tôi leo lên sau, rồi đến phiên cô gái và Hậu.
Thường ngày, leo thang bằng dây như vậy thật là khó khăn, nhưng hôm nay, sự lo lắng và sợ hãi đã làm cho tôi như mọc cánh, leo thật dễ dàng.
Lên đến tàu rồi, thấy Hậu lăng xăng nói chuyện với mất người lính Mỹ anh gặp. Trong lúc đó tôi nhìn quanh, chiếc tàu lớn này chở có lẽ đến 5, 6 ngàn người vừa lính Mỹ, vừa quân nhân Việt Nam Cọng Hoà, vừa đám người tị nạn như tôi, vợ con quân nhân...những người đầy may mắn chạy thoát đặc biệt như vầy.
Qua khỏi cơn kinh hoàng, bất chợt tôi vừa nhận ra mình sẽ rời xa mãi Việt Nam thân yêu, tôi quay lại nhìn về phía Vũng Tàu, xa lắm nên tôi không con thấy và nghe tiếng đám người chạy loạn, chỉ thấy lửa; toàn lửa đỏ cả một góc trời và đám khói đen nghịt bốc cao, Vũng Tàu vừa bị đốt. Tôi thở dài, thế là quê hương thân yêu tôi đã bỏ lại sau lưng mình !
Tôi tìm anh lính để cám ơn anh đã lo cho Nam, tôi tìm Hậu để muốn nói một lời nào đó, và để hỏi Hậu về tin tức mình sẽ đi về đâu...Hậu thây tôi đến gần, anh nhìn tôi, nở một nụ cười đón tôi nhưng thật buồn, rồi thôi, hai chúng tôi đứng bên nhau không nói thêm gì nữa, tôi thấy mắt Hậu nhìn về phia tôi cũng vừa nhìn lúc nãy, đôi mắt anh chứa một nỗi buồn kín đáo, trầm lặng, tôi biết anh đang nghĩ đến quê hương vừa bỏ mất, đến Vân, tình yêu đầu đời của anh nay chỉ còn là một hoài niệm khó quên, hình ảnh của những mảnh thịt da tan tác đó đây, nhầy nhụa máu cùng đất đỏ cao nguyên của Vân, của những người lính đồng đội của anh đã nằm xuống, của những người dân chết vì một viên đạn, một mảnh bom vô tình rơi trúng trên một quãng đường nào đó của quốc lộ...

****
Trên chiếc Hàng Không Mẫu Hạm Hoa Kỳ chở dân tị nạn chúng tôi bây giờ bớt người, vì đến đảo Subic Bay, có khu trục hạm khác đang đậu chờ để chia bớt số dân di tản chia làm hai ra, dân trên tàu chúng tôi thấy tàu kia tản bớt còn ít người nên ùn ùn xuống bớt tàu nầy qua bên tàu kia. Không biết là chiến hạm này sẽ đi Canada hay Úc thì tôi không rõ lắm.
Thấy bớt được người, Hậu bảo anh bạn lính, Uyên và tôi cứ ở lại đây vì Hậu bảo tàu này chắc sẽ qua thẳng đảo Guam.
Tôi mở ngoặc nói về người Mỹ một chút, những ngày trên tàu, hầu hết lính Mỹ đối với đám dân tị nạn chúng tôi rất tốt, chúng tôi mỗi ngày vẫn nhận được 3 bữa ăn có cơm chỉ khổ là họ không biết biết nấu kiểu Việt Nam, nhiều nước quá nên cơm nhảo, nhưng dù sao khi đói ăn gì vẫn thấy ngon, đồ ăn toàn là đồ hộp như thịt hộp...các cháu bé thì được phát thêm sữa bột Mỹ...Tôi cám ơn những người Mỹ đã đón nhận chúng tôi với nỗi thông cảm sâu sắc tình người.
Vì bớt người nên chúng tôi không còn nằm như cá mòi sắp lớp nữa, Hậu tìm được cho bọn con gái chúng tôi một chỗ trên boong, thoải mái. Những người lính Mỹ đem cho chúng tôi mỗi người một tấm nệm bằng cao su,một tấm mền.vừa ấm cũng vừa êm nên cũng đỡ khổ cho tấm lưng gầy, mấy hôm nay bị cong vì nằm hụt chỗ.
Đêm nay, đêm bình yên đầu tiên tôi nhìn thấy trăng, bao ngày lênh đênh trên biển, sự lo âu và đau buồn vì cớ cái chuyện rời bỏ quê hương đang bị dày xéo bỡi chế độ khắc nghiệt độc tài sau chiến tranh. Nhớ cái chết thảm thương tội nghiệp của Vân, tôi như người ngồi trên lửa và mắt tôi như mù đi. Đêm nay ngồi ôm cho bé Nam ngủ, tôi ngồi cạnh Hậu, Sang – anh lính chưa quen và Uyên, tôi chợt thấy trên nền trời đêm xanh trong, có mặt trăng và những ngôi sao lấp lánh, chợt tôi nhớ đến 4 câu thơ của người lính không biết tên đọc cho tôi nghe lúc anh nằm cạnh, anh vuốt tóc tôi âu yếm:
giữa khuya tay gối đợi chờ
em đi vào giấc mơ đời lênh đênh
trăng vào xiêm áo nhẹ tênh
oằn thân ngà ngọc cong vênh cội nguồn.... mắt tôi chợt ướt, tôi lắc đầu cho quên đi kỷ niệm, vì giờ này đâu còn là lúc để nhớ mà chỉ lo ngay ngáy ngày mai mình và con sẽ ra sao và tương lai sẽ đi về đâu...
Lênh đênh trên biển như vậy, sau 11 ngày, thì chiến hạm đến hải phận của đảo Guam. Trước khi cho chúng tôi sang những chiếc tàu nhỏ của tuần dương hạm để vào đảo, họ phát cho chúng tôi ít quần áo, các người đàn ông mỗi người một chiếc sơ mi chim cò kiểu người Phi Luật Tân .
Bỗng tôi nghe có tiếng thét từ trên boong cao, tôi đưa cháu Nam cho Uyên, đưa mắt tìm Hậu nhưng không thấy, tôi chạy vội leo lên boong, thấy Hậu và một nhóm người đang nhìn xuống biển, tôi vội vàng chạy đến tìm Hậu, đưa mắt hỏi. Chỉ nghe Hậu thở dài và đám người kia phần nhiều là quân nhân VNCH, mặt họ thật buồn.
Hậu kễ cho tôi nghe câu chuyện từ đâu có tiếng thét nhói tim người nghe lúc nãy: Lúc mọi người được phát chi cho quần áo, chiếc áo sơ mi chim cò kiểu Phi Luật Tân vẫn mặc. Như mọi người quân nhân khác, Hậu cầm chiếc áo trong tay, tần ngàn không biết nên cổi bộ quân phục đang bận trên người để thay, chợt Hậu thấy đằng xa một anh quân nhân cầm trên tay chiếc áo, vẻ mặt như đang nghĩ ngợi một điều gì quan trọng, có lẽ anh ta đang đối diện với một sự thật tàn nhẫn không thể chối bỏ hay quên được: Đó là danh dự tổ quốc, lý tưởng của người làm trai đã hy sinh cả cuộc đời, tuổi trẻ, gia đình để bảo vệ miền đất tự do của anh đã mất hết. Trong một khắc ngắn, như đã quyết định, anh leo lên bờ boong tàu, lao mình xuống biển mà sóng đã nuốt chửng mất hút thân anh trong biển mênh mông trong lúc Hậu chưa kịp làm một cử chỉ gì để giữ anh lại! Vậy là bao nhiêu chí lớn trong một khắc ngắn đã chìm theo những bọt sóng vô tình....Hậu nắm tay tôi, ngậm ngùi cho hoàn cảnh của những người cầm súng không giữ được quê hương ! Hậu nghĩ trong đầu, khi cầm chiếc áo chim cò anh vừa nhận được, anh cảm thấy lòng anh rất thẹn, thẹn vì anh thấy mình thật bất lực, anh là một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà, trong tay anh cầm súng cùng với anh em chiến hữucố chiến đấu đến phút cuối cùng, vậy mà không làm tròn được sứ mạng của người trai lúc quê hương đang gặp nguy biến, không ngăn chận được kẽ thù, anh cũng đã nghĩ đến chỉ có cái chết mới có thể xin tạ lỗi cùng quê hương, nên anh rất hiểu tâm trạng người quân nhân vừa đã nhảy xuống biển tự vẫn vừa rồi.
Tôi nhìn Hậu, thấy sự xót xa trong mắt Hậu, tôi vội bấu chặt lấy cánh tay Hậu:
-Hậu, Hậu đừng làm vậy, đã không có ích gì mà còn làm cho Vân dưới suối vàng buồn thêm, và còn những người còn sống, đồng bạn Hậu, mẹ con chị còn cần đến Hậu.
Vào đến đảo, chúng tôi cũng được đón tiếp đàng hoàng. Mỗi gia đình được chia cho một căn lều vải . Chúng tôi là những người gần như đầu tiên đến đảo, được đối đãi rất tốt. Mỗi ngày nhận được 3 khẩu phần. Cuộc sống trên đảo cũng tạm qua ngày trong lúc chờ đợi Uỷ Ban Liên Hiệp Quốc quyết định cho tương lai của những người di tản.
Trên đảo có một văn phòng đại diện Liên Hiệp Quốc, họ cần những người biết tiếng Pháp, tiếng Anh để làm thông dịch viên. Hậu và tôi tình nguyện vào làm vì chúng tôi nói thạo 3 thứ tiếng.
Sau đó thấy Hậu độc thân, họ hỏi anh muốn đi đâu và có thân nhân ở đâu, Hậu bảo anh đã liên lạc được với vợ chồng em gái anh ở Mỹ và chịu bảo trợ cho anh, và anh đã được đồng ý cho đi Hoa Kỳ. Sau đó đến tôi, thấy tôi thạo tiếng Anh, và có con nhỏ, họ bảo tôi được quyền ưu tiên chọn xứ, và sau đó do sự bảo trợ của nhà thờ, họ tìm được cho tôi một gia đình hai vợ chồng người Mỹ cao tuổi đang cần một người giúp việc nhà, họ liên lạc với gia đình này và tôi được nhận.
Cuộc đời mẹ con tôi đến một ngã rẽ may mắn, nhiều khi nghĩ lại, tôi cũng tự hỏi có phải tôi đẻ bọc điều không, hay định mệnh do Trời Phật xếp đặt.
Ông bà Mỹ đối với mẹ con tôi như người nhà. Ngoài những giờ làm việc, bà chủ cho tôi theo học lớp tiếng Anh cho người ngoại quốc, vì dù tôi thạo tiếng Anh, nhưng ở Mỹ họ nói mau quá khó nghe vì nuốt chữ. Và vì chợ búa, món ăn tôi chưa thạo việc lắm, chỉ có cái vui là ông bà rất thích đồ ăn Việt nên mê những món tôi nấu.
Ở đây có nhiều hội từ thiện các nhà thờ, thường cho mẹ con tôi quần áo …có mặc rồi nhưng chưa cũ lắm, cháu Nam thì ban ngày được đi mẫu giáo, tóm lại, cuộc đời tôi không đến nổi nổi trôi lắm nếu hai ông bà Mỹ không mất đi. Từ đó, tôi lại phải lo tìm việc khác để làm nuôi con.
Tôi nhờ nhà thờ tìm cho tôi chỗ làm, và tôi được nhận vào nấu ăn cho một nhà hàng Việt, với sự dành giụm, mấy năm sau tôi mua được một căn nhà nhỏ đủ cho mẹ con tôi ở. Tôi tiếp tục như vậy và nuôi con cho đến lúc nó ra đại học. Bây Giờ Nam đã là một luật sư . Nó tìm được chỗ làm tốt cùng với một luật sư người Mỹ gốc Việt.
Hiên nay tôi đã ngoài lục tuần. Tôi vẫn sống độc thân nuôi con, dù có rất nhiều người thương và xin cưới tôi. Trong tim tôi, bao giờ cũng chỉ có một hình bóng duy nhất của người lính không biết tên mà tôi vẫn xem anh như chồng mình. Tôi cứ cầu nguyện Trời Phật cho tôi gặp lại anh ấy dù chỉ một lần là đủ mãn nguyện rồi. Nam từ nhỏ vẫn hỏi cha nó đâu, tôi giải thích cho con cha nó là một người lính trước đây của binh chủng Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà.

40 năm sau
.......
Buổi tối hôm đó, tôi đi dự đám cưới con của bạn, tôi không thể nào ngờ là mình đã gặp lại người xưa. Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.
Trong một bữa tiệc cưới con trai bạn, tôi đi dự hôm đó,mặc chiếc áo dài tím như thời còn là học trò nhưng hở cổ, thân người vẫn mỏng mảnh, và nhìn chung sắc diện cũng còn dễ coi, chưa bị thời gian hằn những nếp nhăn mặc dù đời tôi quá ê chề lúc trẻ. Trên cổ trắng ngần của mình, sợi dây chuyền người lính không biết tên đã tặng vẫn nằm yên cùng chỗ khi người ấy đeo vào cho tôi. Tôi đang đứng nói chuyện với mẹ cô dâu, chợt thấy có một người đàn ông tóc hơi hoa râm nhìn tôi chăm chú, tôi cố nghĩ tìm xem có quen không, thì người ấy đã đi về phía tôi, nhìn đăm đăm vào khoảng cổ trần của tôi:
- Xin lỗi bà về tội tôi đường đột sắp hỏi môt câu, nếu có gì thấy thất lễ, mong bà lượng thứ cho. Chưa kịp trả lời bằng lòng hay không, ông ta tiếp theo:
- Xin lỗi bà, làm sao bà có sợi dây chuyền này? bất giác tôi nhìn tay ông ta đang cầm cốc rượu, một chiếc nhẫn bạc quen thuộc trên ngón tay út, cả hai người, ông ta và tôi đánh rơi hai cốc rượu xuống đất cùng một lần theo sau hai tiếng như thoát ra từ ngực mỗi người:
- Anh
- Em...
Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.
Hôm ấy tôi làm một bữa cơm thật giản dị nhưng để hết thương yêu vào những món mà ngày anh đến quán Vân tôi đã tự tay nấu cho anh và nhân thể tôi gọi Nam đến ăn cơm nhưng chưa cho con biết vì sao tôi căn dặn con là phải đến. Hôm nay tôi cũng sửa soạn làm đẹp một chút và nhìn gương, tôi rất tự hào mình vẫn còn những nét xưa.
Nghe chuông cửa reo, tôi vội vàng ra mở cửa, thấy anh ôm trên tay một bó hồng đỏ và chào tôi bằng một nụ cười thật tươi, tôi sững hết một phút, ban ngày nhìn rõ, nụ cười đó của anh vẫn dành cho tôi những ngày ngắn ngủi thương yêu nhau ngày xưa. Anh đưa cho tôi bó hồng, anh bảo có 40 đoá hoa, tôi hỏi tại sao lại 40 đoá hoa?
- Vì đã 40 năm anh chưa gặp lại em. Và mỗi một đoá hồng là một năm tròn anh nhớ em đó em.
Nước mắt tôi ứa ra vì cảm động. Tối qua ở tiệc cưới, anh bảo anh vẫn ở một mình đến bây giờ vì cũng thầm mong ngày nào đó gặp lại tôi.
Tôi mời anh vào nhà, mời anh vào salon, mời anh ngồi ở chiếc ghế bành một chỗ bên tay trái tôi, tôi mở chai champagne, rót vào hai cốc, mời anh uống rượu khai vị. Anh nắm tay bảo tôi ngồi xuống cạnh anh, anh ôm tôi hôn nồng nàn như đêm đầu tiên mới gặp .
Qua hết những phút cảm xúc, tôi đứng dậy, đi lại bàn viết, mở hộc tủ lâu nay tôi vẫn khoá, tôi lấy bao thuốc lá Capstan cũ đưa cho anh, anh ngạc nhiên nhìn tôi, tôi ra dấu cho anh mở đi.
Anh cầm bao thuốc, mở ra, anh như sửng lại: trong bao thuốc anh để lại trên bàn khi anh trở về đơn vị còn y nguyên số tiền lương tháng cuối cùng anh để lại cho tôi, tấm ảnh cũ của anh và bài thơ anh viết vội tặng tôi trước khi anh lên đường. Anh lặng người đi mấy phút, xong anh kéo tôi lại, dang tay ôm trọn tôi trong vòng tay anh.
- Sao em lại để dành số tiền này vậy?
- Vì đó thuộc về những kỷ niệm ít oi anh để lại cho em trước khi anh đi.
- Anh bao em nếu em cần thì tiêu, không thì ngày gặp lại, em trả lại anh cũng được
- ???
- Vì em không phải cần đến số tiền đó nên...
Ngay lúc ấy, cửa nhà mở, cháu Nam bước vào, thấy anh, nó khựng lại một giây, xong bước lại gần, đứng cụp hai chân với nhau và đưa tay phải lên trán chào anh theo kiểu nhà binh.Thấy anh bỡ ngỡ, Nam lên tiếng trước:
- Con chào Ba, rồi đến gần hôn anh trên má.
Anh ngạc nhiên nhìn Nam rồi nhìn tôi, tôi chưa kịp lên tiếng thì Nam đã giành nói:
- Thưa, con biết là Ba, vì khi con vừa bước vào phòng khách, thấy Ba ngồi trên chiếc ghế mà Mẹ con không mời ai ngồi trên ấy, kễ cả bạn bè của Mẹ hay ngay cả chú Hậu, vì Mẹ con vẫn nói với con là người đàn ông nào bước vào nhà và được Mẹ con mời ngồi vào chiếc ghế này sẽ là cha của con mà thôi, vì vậy mà con biết là Ba.
Anh nhìn tôi, tôi hiểu ra, tôi nói :
- Mấy tháng sau khi anh đi, em đã có thai, và đây là con trai chúng mình đấy anh, con tên là Nam, Nguyễn Việt Nam, em khai họ mẹ vì không biết anh tên gì và họ gì, anh cười thật tươi:
- Anh là Cường, Nguyễn Việt Cường.
- Còn em là Trầm Hương, anh trả lời hộ tôi, vì phía trong chiếc nhẫn em tặng anh đêm đó, anh đọc thấy tên em khắc trong nhẫn : Tôn Nữ Trầm Hương, rồi ôm tôi âu yếm...Hạnh Phúc thật bất ngờ còn đến với những người bạc hạnh như tôi.

đht
Cám ơn người đã viết tặng đông hương bài thơ " MAI LÊN NỚ " cho
Sắc Hoa Thời Loạn.

dimanche 6 janvier 2019

LỜI BẠT CỦA NHÀ THƠ LAN PHI



Lan Phi Vo à Donghuong Tonnu
Nhận được lời của người bạn, nhà thơ Tôn nữ Đông Hương muốn tôi viết đôi dòng về đứa con tinh thần thứ hai của nữ thi sĩ....thú thật là tôi ....chẳng biết viết gì....bởi lẽ..Huế trong tôi bây giờ mờ nhạt lắm...dễ thường đã 44 năm trôi qua...và tôi đến thăm Huế trong hoàn cảnh sau khi rời khỏi Thường đức Đại lộc Quãng Nam cầm sự vụ lệnh thay gì về Sài gòn trình diện Bộ chỉ huy BĐQ trại Đào bá Phước thì tôi nổi hứng "ba gai" đón xe đò "dù" ra Huế chơi đôi ba bữa ...cho biết Huế ...với người ta...
"Huế của tôi là những ngón tay thơm
Em Đồng khánh chiều tan trường nghiêng nón
Là thôn Vỹ hàng cau bay lã ngọn
Ánh hoàng hôn vừa chìm xuống Ngự bình
................................................LP

cái ngơ ngác của thằng lính trận lần đầu đến Huế của tôi là như thế...huống chi người sinh ra tại Huế...uống nước Hương Giang ...ăn cơm Hến ...thở không khí Cố đô để lớn thì ...cái tình của Huế nó lại càng day dứt khi xa Huế rồi ....biết chừng nào nữa...
hãy đọc lại một đoản thơ của nhà thơ Đông Hương để cho chúng ta cảm nhận...
"
Nghe đến Huế, lại nhớ về Long Thọ
nhớ Nguyệt Biều, anh và nụ hôn môi
dù có vạn thiên thu, tim vẫn thế
gửi lại Huế và riêng anh mà thôi...."
TNĐH
Nhớ đến từng con đường,từng góc phố hẳn phải là cảnh vật ăn sâu vào trong kí ức và thôi thúc để khi nào có dịp thì trào dâng như là thác lũ...
" Tui nhớ lắm tiếng ve ran mùa Hạ
nhớ mưa phùn của Huế tháng mười hai
mơ theo O một quãng về Mang Cá
nem tré chừ mô...me rốp...lạc loài..."
TNĐH

đúng là cái nỗi nhớ nó cứ rưng rức...gậm nhắm từ từ...
riêng tôi thì thằng lính đến Huế "cởi ngựa xem hoa" nhưng cũng để lại trong lòng mình một Huế tím dễ thương...quá chừng...

" HUẾ TÍM...
Huế tím ơi !_ Áo thu mùa
Một năm có bốn mùa tình tứ thơ
Mơ người áo lụa ban sơ
Mơ tà sắc nhạt _gió hờ hững âm
Huế tôi ơi ! Ngọn thu phong
Thuyền từ Thiên mụ xuôi giòng Hương giang
Chiều qua Thượng tứ sắc vàng
Thơ tôi tím nhớ tương tư tháng ngày
Tím tà áo lụa gió bay
Em nghiêng giáng ngọc _ tôi say dáng hình
Tóc dài thả ngọn lung linh
Môi son diễm lệ gợi tình thơ tôi...
LanPhi

và để gói gọn lại một quá khứ Huế luôn mãi hứa sẽ về lại một lần nữa...nhưng chẳng biết bao giờ...thôi thì chỉ biết gửi đến Huế với bao nhiêu diều tiếc nuối thân thương...cho dù chỉ một lần đến nhưng cứ vướng vất trong lòng mình mãi mãi hình ảnh của dất Thần kinh..cố đô yêu mến...
HUẾ CỦA TÔI
Huế của tôi là những ngón tay thơm
Em Đồng khánh chiều tan trường nghiêng nón
Là thôn Vỹ hàng cau bay lã ngọn
Ánh hoàng hôn vừa chìm xuống Ngự bình

Huế của tôi là những ngón tay xinh
Ôm nghiêng cặp chiều một mình qua phố
Em cúi mặt khi có người ta chộ
O ơi O về mô rứa O tề

Huế của tôi cổ kính lúc đêm về
Trăng lơi lã trên thềm rêu lăng tẩm
Cổng ngọ môn vẫn bao mùa lẳng lặng
Đứng nhìn trăng trên mái Tử cấm thành

Huế của tôi là chiếc nón lộng tranh
Cài quai tím _tím nỗi lòng ai đó
Huế của tôi buồn theo chân từ độ
Tiễn đưa người mùa sứ rộ _ sang sông

Huế của tôi in dấu mãi trong lòng
Người em gái :"Dợ thưa ...răng ...rứa...hỉ "
LanPhi

Ôi....Huế của tôi..của người dân Miền Nam một thời... dễ thương biết là nhường nào...
LanPhi

vendredi 16 novembre 2018

ƯỞN NGỰC LÊN CHỜ NHẬN NHỮNG ĐI VỀ


Tôi gắng sống cho đến giờ phút cuối
bóp cơn đau cho tim đỡ sóng soài
trên giường, xin dừng đoạ đày hơi thở
phổi nghẹn rồi, ai dìu tim đi soi
*
Hôm nay chữ như không buồn rơi xuống
như hằng ngày, thơ mất hứng, không vui
tôi vội vã chạy tìm người để mượn
chút tinh anh uống cho khoẻ _lạy trời!
*
Ráng níu kéo mọc mời tình loã thể
hứng cảm rồi, lời ý mới trườn theo
nghe mạch sống chảy luông tuồng huyết quản
màu mặt trời giờ hoàng đạo tuyệt cao
*
Con bà nó, những tôi và trái cấm
đã một thời làm mưa gió tim anh
chừ đơn giản, tự tin và can đảm
tìm sâu xa, dụ ngực trái hoành hành
*
Mở xiêm áo cho tim mình dễ thở
ưởn ngực lên chờ nhận những đi_về
nghe thấm nhột đến cực cùng vũ trụ
té ra mình còn thấy thích đam mê

đông hương